Ngày 11/5/2017, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị phổ biến Luật NSNN năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Phan Cao Thắng đã đến dự và phát biểu chỉ đạo Hội Nghị.
Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 (sau đây gọi tắt là Luật NSNN năm 2015), đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua và ban hành ngày 25/6/2015, thay thế Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 (sau đây gọi tắt là Luật NSNN năm 2002). Luật NSNN năm 2015 có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2017.
Trên cơ sở chỉ đạo của UBND tỉnh, Đồng chí Nguyễn Văn Hưng – Phó Giám đốc Sở Tài chính giới thiệu những nội dung mới của Luật NSNN năm 2015 so với Luật NSNN năm 2002 trước toàn thể Hội nghị.
Về kết cấu của Luật: Luật NSNN năm 2015 bao gồm 7 Chương, với 77 Điều, giảm 01 chương (bỏ Chương Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng và xử lý vi phạm do đã được quy định ở các Luật khác), giữ số điều so với Luật NSNN năm 2002. Khác với Luật NSNN năm 2002, Luật NSNN năm 2015 có bổ sung thêm tên Điều, vì vậy các nội dung cũng được sắp xếp, quy định bảo đảm nội dung tại các Điều phù hợp với tên Điều.
Về mục tiêu: bảo đảm tuân thủ Hiến pháp năm 2013, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thống nhất với Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật hiện hành có liên quan khác. Kế thừa và phát huy những mặt tích cực của Luật NSNN năm 2002; đổi mới phương thức quản lý NSNN phù hợp với thực tiễn phát triển KT-XH của đất nước. Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của NSNN và vai trò chủ đạo của NSTW; đồng thời phát huy tính chủ động của ngân sách các cấp chính quyền địa phương trong quản lý và sử dụng NSNN. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao tính minh bạch, dân chủ và công khai trong công tác quản lý NSNN; kiểm soát chặt chẽ hoạt động thu, chi ngân sách; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính - NSNN bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng. Tăng cường giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý nợ công, quản lý rủi ro; bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia; góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Tiếp thu những kinh nghiệm quốc tế về quản lý NSNN; vận dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; bảo đảm công tác quản lý NSNN từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, Luật NSNN năm 2015 có nhiều nội dung mới so với Luật NSNN năm 2002. Trong đó:
- Luật NSNN năm 2015 quy định bội chi NSNN bao gồm bội chi NSTW và bội chi NSĐP cấp tỉnh. Bội chi NSTW được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi NSTW không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu NSTW. Bội chi NSĐP cấp tỉnh là tổng hợp bội chi ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương, được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách cấp tỉnh không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương (Luật NSNN năm 2002 quy định bội chi NSNN là bội chi NSTW; chi NSNN bao gồm chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay, bội chi NSNN bao gồm toàn bộ các khoản vay để bù đắp chênh lệch thu, chi NSNN. Đồng thời, Luật NSNN 2002 quy định NSĐP không được phép bội chi, nhưng ngân sách cấp tỉnh được phép huy động để đầu tư các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng thuộc nhiệm vụ chi của NSĐP).
- Về điều chỉnh nguồn thu trong trường hợp thu ngân sách có biến động tăng đột biến trong thời kỳ ổn định ngân sách: Luật năm 2002 không quy định, Luật NSNN năm 2015 quy định: Trường hợp đặc biệt có phát sinh nguồn thu từ dự án mới đi vào hoạt động trong thời kỳ ổn định ngân sách làm ngân sách địa phương tăng thu lớn thì số tăng thu phải nộp về ngân sách cấp trên. Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định thu về ngân sách cấp trên số tăng thu này và thực hiện bổ sung có mục tiêu một phần cho ngân sách cấp dưới để hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ở địa phương theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Về dự phòng ngân sách: Luật NSNN năm 2015 quy định: Ngoài những nội dung chi phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, nhiệm vụ phát sinh quan trọng về quốc phòng, an ninh; bổ sung thêm nội dung được phép sử dụng từ nguồn dự phòng ngân sách, gồm: khắc phục thảm họa; dịch bệnh; cứu đói và các nhiệm vụ cần thiết khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách cấp mình mà chưa được dự toán; hỗ trợ các địa phương khác khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ nghiêm trọng. Để bảo đảm việc sử dụng dự phòng chặt chẽ, Luật NSNN năm 2015 quy định rõ thẩm quyền và giám sát việc sử dụng dự phòng, theo đó, Chính phủ quy định việc sử dụng dự phòng của NSTW, định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất; UBND quyết định sử dụng dự phòng NSĐP, định kỳ báo cáo Thường trực HĐND, báo cáo HĐND cùng cấp tại kỳ họp gần nhất. Đồng thời, Luật NSNN năm 2015 quy định giảm tỷ lệ dự phòng còn từ 2% đến 4% tổng chi NSNN thay vì Luật NSNN năm 2002 quy định tỷ lệ dự phòng từ 2% đến 5% tổng chi NSNN…
Nhằm đảm bảo đầy đủ cơ sở triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả Luật ngân sách nhà nước năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ngân sách nhà nước năm 2015; Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã ban hành một số Thông tư số: 342/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 163/2016/NĐ-CP; 343/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 hướng dẫn thực hiện công khai ngân sách nhà nước đối với các cấp ngân sách; 344/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn. Nội dung các văn bản hướng dẫn trên đã được Sở Tài chính phổ biến đầy đủ đến các đại biểu tham dự Hội nghị./.
Phạm Việt Linh